Diễn đàn Sinh Viên Tài Chính - NLU
Chào mừng các bạn đến với diễn đàn sinh viên tài chính !
Mong được sự ủng hộ nhiệt tình của các bạn để diễn đàn ngày một phát triển hơn.
Merci beaucoup !
Diễn đàn Sinh Viên Tài Chính - NLU
Chào mừng các bạn đến với diễn đàn sinh viên tài chính !
Mong được sự ủng hộ nhiệt tình của các bạn để diễn đàn ngày một phát triển hơn.
Merci beaucoup !
Diễn đàn Sinh Viên Tài Chính - NLU
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Diễn đàn Sinh Viên Tài Chính - NLU


 
Trang ChínhTrang Chính  Latest imagesLatest images  Tìm kiếmTìm kiếm  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  

 

 Tình hình kinh tế - xã hội quý I năm 2010

Go down 
Tác giảThông điệp
Admin
Admin
Admin
Admin


Tổng số bài gửi : 165
Points : 483
Reputation : 0
Join date : 26/03/2010
Age : 34
Đến từ : Lớp tài chính K34

Tình hình kinh tế - xã hội quý I năm 2010 Empty
Bài gửiTiêu đề: Tình hình kinh tế - xã hội quý I năm 2010   Tình hình kinh tế - xã hội quý I năm 2010 EmptyWed Mar 31, 2010 9:00 pm

Tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá 12 đã đề ra Nghị quyết số 36/2009/QH12 về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2010 với mục tiêu tổng quát là:“Nỗ lực phấn đấu phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao hơn năm 2009, tăng tính ổn định kinh tế vĩ mô; nâng cao chất lượng tăng trưởng; ngăn chặn lạm phát cao trở lại; tăng khả năng đảm bảo an sinh xã hội; chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội; bảo đảm yêu cầu quốc phòng, an ninh; phấn đấu đạt mức cao nhất các chỉ tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010”. Ngày 15/01/2010 Chính phủ ban hành Nghị quyết số 03/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2010 với 6 nhiệm vụ và 8 nhóm giải pháp chủ yếu gồm trên 130 giải pháp cụ thể nhằm thực hiện mục tiêu tổng quát nêu trên.

Ngay từ đầu năm, các cấp, các ngành, các địa phương đã khẩn trương triển khai và tổ chức thực hiện quyết liệt các Nghị quyết của Đảng, Nhà nước nên tình hình kinh tế-xã hội quý I/2010 của nước ta diễn biến theo chiều hướng tích cực với những kết quả chủ yếu như sau:

KẾT QUẢ PHỤC HỒI TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2010 ước tính tăng 5,83% so với cùng kỳ năm 2009, bao gồm khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,45%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,65%; khu vực dịch vụ tăng 6,64%. Trong tốc độ tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp 0,42 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 2,44 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ đóng góp 2,97 điểm phần trăm. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước quý I tuy chưa bằng mục tiêu tăng 6,5% đề ra cho cả năm nhưng cao hơn nhiều so với quý I/2009, chứng tỏ nền kinh tế nước ta đang tiếp tục phục hồi và tăng trưởng nhanh dần.

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước

quý I năm 2009 và quý I năm 2010 (%)






Tốc độ tăng so với quý I năm trước


Đóng góp của các khu vực vào tăng trưởng quý I/2010




Quý I/2009


Quý I/2010

Tổng số


3,14


5,83


5,83

Nông, lâm nghiệp thuỷ sản


1,84


3,45


0,42

Công nghiệp và xây dựng


1,70


5,65


2,44

Dịch vụ


4,95


6,64


2,97
Tổng sản phẩm trong nước quý I/2010

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản

Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản quý I/2010 theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 48,2 nghìn tỷ đồng, tăng 5,8% so với quý I/2009, bao gồm nông nghiệp đạt 36,1 nghìn tỷ đồng, tăng 6,1%; lâm nghiệp đạt 1,5 nghìn tỷ đồng, tăng 4,5%; thủy sản đạt 10,6 nghìn tỷ đồng, tăng 4,9%. Tốc độ tăng giá trị sản xuất của khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm nay không chỉ cao hơn tốc độ tăng 0,9% của quý I/2009 mà còn tăng khá cao so với tốc độ tăng quý I của nhiều năm trước. Tốc độ tăng giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản quý I/2006 tăng 2,4%; quý I/2007 tăng 2,7%; quý I/2008 tăng 4,1%; quý I/2009 tăng 3,4%

Nông nghiệp

Tính đến ngày 15/3/2010, cả nước đã gieo cấy 3051,8 nghìn ha lúa đông xuân, bằng 102,4% cùng kỳ năm trước. Các địa phương phía Bắc gieo cấy 1098,6 nghìn ha, bằng 100,1%, trong đó các địa phương vùng Đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ đã cơ bản kết thúc gieo cấy. Các địa phương phía Nam gieo cấy 1953,2 nghìn ha, bằng 103,7% cùng kỳ năm trước, trong đó Vùng đồng bằng sông Cửu Long 1579,1 nghìn ha, bằng 102,3% cùng kỳ năm 2009.

Đến trung tuần tháng 3/2010, các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã thu hoạch 895,9 nghìn ha, chiếm 56,7% diện tích gieo cấy và bằng 115,6% cùng kỳ năm trước, trong đó: Long An 87 nghìn ha; Đồng Tháp 126 nghìn ha; An Giang 200 nghìn ha; Kiên Giang 193 nghìn ha, Tiền Giang 35 nghìn ha. Theo báo cáo sơ bộ, mặc dù một số diện tích gieo cấy bị nước mặn xâm nhập nhưng năng suất lúa đông xuân toàn vùng năm nay ước tính đạt 63,8 tạ/ha, tăng 0,2 tạ/ha, chủ yếu do nhiều địa phương tăng diện tích gieo cấy các giống lúa có năng suất cao như: IR 50404, OM 576, tỷ trọng diện tích gieo cấy các giống lúa cho năng suất cao của Tiền Giang tăng từ 13% trong vụ đông xuân trước lên 38% trong vụ đông xuân năm nay; Đồng Tháp từ 27% lên 37%; An Giang từ 6% lên 20%. Do diện tích gieo cấy và năng suất tăng nên sản lượng lúa đông xuân năm nay của vùng Đồng bằng sông Cửu Long ước tính đạt 9973 nghìn tấn, tăng 117 nghìn tấn so với vụ đông xuân 2009, trong đó Vĩnh Long đạt 436,6 nghìn tấn, tăng 9,1 nghìn tấn; Hậu Giang 532,6 nghìn tấn, tăng 13,8 nghìn tấn.

Tình hình hạn hán và sâu bệnh vẫn diễn biến phức tạp. Do nắng nóng kéo dài nên mặc dù các địa phương phía Bắc đã chủ động nạo vét kênh mương, huy động hết công suất máy bơm, bơm nước xả từ các hồ thuỷ điện, nhưng một số diện tích lúa của các địa phương vẫn không đủ nước, có khả năng sẽ cho năng suất thấp (Nam Định 734 ha; Bắc Kạn 1731 ha; Thái Nguyên 5155 ha; Hà Giang 1000 ha). Nguồn nước nội đồng ở nhiều địa phương phía Nam cũng cạn kiệt nên diện tích lúa đông xuân muộn của một số tỉnh, nhất là Trà Vinh, Sóc Trăng đang ở trong tình trạng khô hạn, bị nước mặn xâm nhập.

Tại phía Bắc, Nam Định có diện tích lúa đông xuân bị nhiễm sâu bệnh nặng nhất với 26,7 nghìn ha; tiếp đến là Thái Bình 14 nghìn ha. Tại phía Nam, có trên 110 nghìn ha diện tích lúa bị nhiễm bệnh rầy nâu, sâu đục thân (Tiền Giang 15,7 nghìn ha; Trà Vinh 13,2 nghìn ha; An Giang 24 nghìn ha; Sóc Trăng 8,5 nghìn ha ) và hơn 80 nghìn ha bị nhiễm bệnh đạo ôn, sâu cuốn lá (An Giang 33 nghìn ha; Sóc Trăng 7 nghìn ha).

Cùng với việc hoàn thành gieo cấy lúa đông xuân muộn trên địa bàn cả nước và bước vào thu hoạch lúa đông xuân tại các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long, trên địa bàn cả nước đã tranh thủ thời tiết thuận lợi gieo trồng cây vụ xuân. Tính đến 15/3/2010, cả nước đã gieo trồng được 369,2 nghìn ha ngô, bằng 107,9% cùng kỳ năm trước; khoai lang 78,1 nghìn ha, bằng 97,1%; đậu tương 111,6 nghìn ha, bằng 143,6%; rau đậu 366,6 nghìn ha, bằng 101,8%. Ngoài ra, các địa phương phía Bắc còn tập trung thu hoạch cây vụ đông. Thời điểm đầu vụ đông năm nay tuy hạn hán xảy ra ở một số tỉnh miền núi, nhưng do không bị ảnh hưởng lũ lụt lớn như năm trước và một số diện tích gieo cấy lúa thiếu nước chuyển sang gieo trồng cây vụ đông nên sản lượng của nhiều cây vụ đông tăng mạnh so với vụ đông năm trước: Sản lượng ngô tăng 66%; khoai lang tăng 23%; đỗ tương gấp 4,6 lần; lạc tăng 18%; rau đậu tăng 17%.

Chăn nuôi trong những tháng đầu năm tăng mạnh, đáp ứng nhu cầu thực phẩm tiêu dùng tăng cao trong dịp Tết Nguyên đán. Dịch bệnh trên gia súc, gia cầm tuy còn xảy ra nhưng trên phạm vi hẹp nên không gây thiệt hại lớn. Giá thức ăn chăn nuôi tương đối ổn định đã khuyến khích nhân dân mở rộng đầu tư tái đàn. Tổng đàn lợn quý I/2010 ước tính tăng trên 3% so với cùng kỳ năm 2009; đàn gia cầm tăng 8%; sản lượng thịt hơi các loại tăng 6%. Các địa phương đã và đang tích cực triển khai công tác phòng chống dịch bệnh trên gia súc, gia cầm, tập trung vào tiêm vacxin phòng bệnh lở mồm long móng, cúm gia cầm, tụ huyết trùng, v.v... Tính đến ngày 21/3/2010, cả nước không còn địa phương nào có dịch tai xanh trên lợn; các dịch bệnh chưa qua 21 ngày ở một số địa phương là: Dịch cúm gia cầm ở Tuyên Quang, Bắc Ninh, Quảng Ninh, Bến Tre; dịch lở mồm long móng trên trâu, bò ở Hà Giang, Điện Biên và Sơn La.
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản theo giá so sánh 1994
Sản xuất nông nghiệp đến ngày 15 tháng 3 năm 2010

Lâm nghiệp

Tranh thủ thời tiết thuận lợi, không có rét đậm kéo dài trong những tháng đầu năm, các địa phương đã tích cực triển khai công tác trồng và chăm sóc rừng nên kết quả sản xuất lâm nghiệp đạt khá. Diện tích rừng trồng tập trung quý I/2010 cả nước ước tính đạt 26,8 nghìn ha, tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước; số cây trồng phân tán đạt 59,7 triệu cây, tăng 0,3%; diện tích rừng trồng được chăm sóc 128 nghìn ha, tăng 6,6%; diện tích rừng khoanh nuôi tái sinh 268 nghìn ha, tăng 6,3%; sản lượng gỗ khai thác đạt 761 nghìn m3, tăng 6,1%; sản lượng củi khai thác đạt 6,8 triệu ste, tăng 2,4%.

Hiện nay thời tiết nắng hạn và khô hanh kéo dài, lại đang vào mùa đốt nương làm rẫy nên tình trạng chặt phá rừng, cháy rừng đã xảy ra ở nhiều địa phương, đặc biệt là các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên. Diện tích rừng bị cháy và bị chặt phá trong quý I/2010 là 1763,6 ha, tăng 28,7% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm diện tích rừng bị cháy 1521,6 ha, tăng 134,1%; diện tích rừng bị chặt phá là 242 ha, giảm 66,4%. Một số địa phương có diện tích rừng bị cháy nhiều là: Hà Giang 262 ha; Cao Bằng 231 ha; Kon Tum 115 ha; Gia Lai 134 ha; Quảng Trị 45 ha; Đồng Nai 30 ha. Đặc biệt vụ cháy rừng nghiêm trọng tại khu vực vườn quốc gia Hoàng Liên, vùng giáp ranh giữa 2 tỉnh Lào Cai và Lai Châu làm cháy 700 ha rừng và 100 ha lau lách.

Theo cảnh báo ngày 24/3/2010 của Ban Chỉ đạo Trung ương phòng chống cháy rừng, cả nước hiện có 26 khu vực có nguy cơ cháy rừng cấp V (cấp cực nguy hiểm); 12 khu vực có nguy cơ cháy rừng cấp IV (cấp nguy hiểm). Do vậy, các địa phương cần phải thực hiện nghiêm, đồng bộ và có hiệu quả các biện pháp phòng cháy, chữa cháy rừng, đặc biệt các tỉnh có những khu vực đã được cảnh báo có nguy cơ cấp IV và V.

Thuỷ sản

Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng và khai thác quý I/2010 ước tính đạt 1067,7 nghìn tấn, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 808,4 nghìn tấn, tăng 4,2%; tôm đạt 93 nghìn tấn, tăng 6,1%.

Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng quý I/2010 ước tính đạt 463 nghìn tấn, tăng 5% so với cùng kỳ năm trước. Giá cá tra, tôm sú và tôm thẻ chân trắng trên thị trường đang ở mức cao do nhu cầu xuất khẩu tăng đã khuyến khích nhân dân tập trung đầu tư mở rộng diện tích thả nuôi. Nhiều địa phương có diện tích nuôi tôm và sản lượng tôm tăng khá cao so với cùng kỳ năm trước, Bạc Liêu tăng 12% về diện tích và tăng 26,7% về sản lượng so với cùng kỳ năm trước; Kiên Giang tăng 40% về diện tích; Cà Mau tăng 20% sản lượng. Nuôi cá tra có xu hướng tăng trở lại và phát triển theo hình thức nuôi quy mô lớn, liên doanh liên kết giữa người nuôi với các cơ sở chế biến nên diện tích thả nuôi của nhiều địa phương cũng đã tăng lên. Những địa phương có diện tích nuôi tăng là: Đồng Tháp tăng 10,9% so với cùng kỳ năm trước; Bến Tre tăng 43%; Vĩnh Long tăng 37,9%; Tiền Giang tăng 10%. Bên cạnh đó vẫn còn nhiều địa phương chưa phục hồi được diện tích thả nuôi cá tra như: An Giang giảm 5% so với cùng kỳ năm trước; Cần Thơ giảm 29,9%.

Khai thác thuỷ sản những tháng đầu năm thuận lợi về thời tiết và giá tiêu thụ nên sản lượng thủy sản khai thác quý I/2010 ước tính đạt 604,7 nghìn tấn, tăng 3,9% so với cùng kỳ năm trước; trong đó khai thác biển đạt 559,8 nghìn tấn, tăng 4,2%. Riêng khai thác cá ngừ đại dương của một số địa phương tăng khá, trong đó Phú Yên khai thác được 2213 tấn, tăng 51,6% so với cùng kỳ năm 2009; Bình Định 1704 tấn, tăng 38,5%.

Sản xuất công nghiệp

Sản xuất công nghiệp tiếp tục đà phục hồi và tăng cao hơn quý I/2009. Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 1994) quý I/2010 ước tính đạt 173,5 nghìn tỷ đồng, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm trước(Quý I/2009 tăng 2,1%), bao gồm khu vực kinh tế Nhà nước đạt 38 nghìn tỷ đồng, tăng 7%; khu vực kinh tế ngoài Nhà nước đạt 63,1 nghìn tỷ đồng, tăng 14,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 72,4 nghìn tỷ đồng, tăng 16,4% (dầu mỏ và khí đốt giảm 4,2%, các ngành khác tăng 19,4%). Trong các ngành công nghiệp, giá trị sản xuất của ngành điện, ga, nước quý I/2010 đạt mức tăng cao nhất với 19,3% so với cùng kỳ năm trước; công nghiệp chế biến tăng 14,1%.

Một số sản phẩm công nghiệp quý I năm nay tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: Điều hoà nhiệt độ tăng 102,3%; khí hóa lỏng tăng 66,7%; kính thuỷ tinh tăng 56,5%; lốp ô tô, máy kéo tăng 51,6%; xe máy tăng 40,4%; xe tải tăng 39,4%; tủ lạnh, tủ đá tăng 36,8%; gạch lát ceramic tăng 35%; xe chở khách tăng 26,4%; khí đốt thiên nhiên dạng khí tăng 24,3%; giấy, bìa tăng 20,1%; điện sản xuất tăng 19,9%; xi măng tăng 18,2%; xà phòng giặt tăng 17,2%; bia tăng 15,9%; sơn hoá học tăng 15,5%; giày thể thao tăng 15,2%. Bên cạnh đó, vẫn còn một số sản phẩm có tốc độ tăng không cao hoặc mức sản xuất không bằng cùng kỳ năm trước như: Ti vi chỉ tăng 4,3%; vải dệt từ sợi tổng hợp và sợi nhân tạo tăng 2,4%; dầu thực vật tinh luyện không tăng; đường kính giảm 4,9%; dầu thô khai thác giảm 14,5%; v.v...

Các địa phương đã nỗ lực, cố gắng thúc đẩy sản xuất công nghiệp phát triển nên nhiều tỉnh, thành phố đạt tốc độ tăng cao hơn mức tăng chung cả nước như: Vĩnh Phúc tăng 47,4%; Phú Thọ tăng 38,7%; Đà Nẵng tăng 26,2%; Bình Dương tăng 20,8%; Hải Dương tăng 19,8%; Quảng Ninh tăng 18,7%, Đồng Nai tăng 18,4%; Hải Phòng tăng 15,2%; Thanh Hoá tăng 14,2%; thành phố Hồ Chí Minh tăng 13,7%. Bên cạnh đó, sản xuất công nghiệp của một số địa phương tăng thấp, thậm chí vẫn trong tình trạng giảm sút: Hà Nội tăng 12,4%; Cần Thơ tăng 11,9%; Bà Rịa-Vũng Tàu giảm 3,1%.

Mặc dù ngành công nghiệp đang trên đà phục hồi nhanh nhưng sản xuất kinh doanh vẫn gặp nhiều khó khăn. Do giá nhiên liệu, nguyên liệu đầu vào tiếp tục tăng, nhất là giá điện, than, xăng dầu, sắt thép, cước vận chuyển tăng cao đã tác động tăng giá thành và giá bán sản phẩm. Chỉ số giá sản xuất của ngành công nghiệp quý I/2010 tăng 9,37% so với quý I/2009, trong đó công nghiệp khai khoáng tăng 24,37%; công nghiệp điện, nước, ga tăng 18,06%; công nghiệp chế biến tăng 6,67%. Do giá bán tăng, sức mua của thị trường trong nước hạn chế và xuất khẩu gặp khó khăn nên nhiều loại sản phẩm tiêu thụ chậm. Qua điều tra 3496 doanh nghiệp lớn hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến chế tạo, tính chung chỉ số tiêu thụ các sản phẩm công nghiệp chế biến tháng 02/2010 giảm 4% so với cùng kỳ năm 2009, trong đó một số ngành sản phẩm có chỉ số tiêu thụ giảm nhiều là: Đường giảm 53,4%; phân bón và hợp chất ni tơ giảm 24,5%; xi măng giảm 18,8%; sợi và dệt vải giảm 10,9%; xe có động cơ giảm 10,8%; giày dép giảm 6,7%; bột giấy, giấy và bìa giảm 6,4%; thuốc lá, thuốc lào giảm 4,2%; sắt, thép giảm 5,6%.
Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 1994
Một số sản phẩm chủ yếu của ngành công nghiệp

4. Hoạt động dịch vụ

a. Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý I/2010 theo giá thực tế ước tính đạt 364,5 nghìn tỷ đồng, tăng 24,1% so với cùng kỳ năm 2009; nếu loại trừ yếu tố giá thì tăng 14,4%. Trong tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý I, khu vực kinh tế cá thể đạt 190,9 nghìn tỷ đồng, tăng 18,7%; kinh tế tư nhân 121,2 nghìn tỷ đồng, tăng 34,8%; kinh tế Nhà nước 38 nghìn tỷ đồng, tăng 20,3%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 10,3 nghìn tỷ đồng, tăng 26,3%; kinh tế tập thể 4 nghìn tỷ đồng, tăng 28,7%. Xét theo ngành kinh doanh thì kinh doanh thương nghiệp đạt 287,3 nghìn tỷ đồng, tăng 24,7%; khách sạn, nhà hàng 40,3 nghìn tỷ đồng, tăng 20,5%; dịch vụ 32,9 nghìn tỷ đồng, tăng 22,6%; du lịch đạt 3,9 nghìn tỷ đồng, tăng 34,1%.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

b. Vận tải hành khách và hàng hoá

Vận chuyển hành khách quý I/2010 ước tính đạt 564,6 triệu lượt khách, tăng 14,8% và 24,3 tỷ lượt khách.km, tăng 15,8% so với quý I/2009, bao gồm vận tải trung ương đạt 9 triệu lượt khách, tăng 6,5% và 6,3 tỷ lượt khách.km, tăng 12,1%; vận tải địa phương đạt 555,7 triệu lượt khách, tăng 16,7% và 18,1 tỷ lượt khách.km, tăng 16,3%. Vận tải đường bộ có tốc độ tăng cao nhất, đạt 515,5 triệu lượt khách, tăng 15,6% và 17,5 tỷ lượt khách.km, tăng 16,4% so với cùng kỳ năm trước; đường sông đạt 41,7 triệu lượt khách, tăng 5,7% và 851,5 triệu lượt khách.km, tăng 2,3%; đường biển đạt 1,6 triệu lượt khách, tăng 5% và 102,1 triệu lượt khách.km, tăng 6,2%; đường sắt đạt 2,7 triệu lượt khách, giảm 0,3% và 955,4 triệu khách.km, tăng 4%; vận tải đường không đạt 3,3 triệu lượt khách, tăng 21,1% và 4,9 tỷ lượt khách.km, tăng 18,5%.

Vận tải hàng hóa quý I/2010 ước tính đạt 169,8 triệu tấn, tăng 10,4% và 46,3 tỷ tấn.km, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: vận tải trong nước đạt 158,5 triệu tấn, tăng 12,5% và 12,7 tỷ tấn.km, tăng 9,4%; vận tải ngoài nước đạt 11,3 triệu tấn, tăng 6,3% và 33,6 tỷ tấn.km, tăng 7,2%. Vận tải hàng hoá đường bộ quý I ước tính đạt 127,9 triệu tấn, tăng 11,9% và 6,5 tỷ tấn.km, tăng 10,3% so với cùng kỳ năm 2009; đường sông đạt 29 triệu tấn, tăng 2,5% và 4,6 tỷ tấn.km, tăng 3,4%; đường biển đạt 11,1 triệu tấn, tăng 16% và 34,2 tỷ tấn.km, tăng 9%; đường sắt đạt 1,8 triệu tấn, giảm 2,9% và 0,9 tỷ tấn.km, tăng 2,4%.
Vận tải hành khách và hàng hoá

c. Bưu chính, viễn thông

Tổng số thuê bao điện thoại phát triển mới trong quý I/2010 đạt 7,2 triệu thuê bao, tăng 22% so với cùng kỳ năm 2009, bao gồm 677,4 nghìn thuê bao cố định, giảm 28,1% và 6,55 triệu thuê bao di động, tăng 31,4%. Số thuê bao điện thoại cả nước tính đến hết tháng 03/2010 ước tính đạt 137,6 triệu thuê bao, tăng 57,7% so với cùng thời điểm năm trước, bao gồm 19,7 triệu thuê bao cố định, tăng 31% và 117,9 triệu thuê bao di động, tăng 63,3%. Số thuê bao điện thoại của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông tính đến hết tháng 03/2010 ước tính đạt 65,3 triệu thuê bao, tăng 30,6% so với cùng thời điểm năm 2009, bao gồm 11,5 triệu thuê bao cố định, tăng 8,1% và 53,8 triệu thuê bao di động, tăng 36,7%.

Đến cuối quý I/2010, số thuê bao internet trên cả nước đạt trên 23,3 triệu thuê bao, trong đó gần 3,1 triệu thuê bao băng rộng (tăng 37,3% so với cùng thời điểm năm trước). Mạng lưới bưu chính được duy trì ổn định và có bước phát triển mới với 8027 điểm Bưu điện văn hoá xã, trong đó có 1515 điểm ở các vùng đặc biệt khó khăn.

d. Khách quốc tế đến Việt Nam

Do kinh tế thế giới phục hồi và ngành Du lịch nước ta tích cực quảng bá, thu hút khách nên khách quốc tế đến nước ta quý I/2010 ước tính đạt 1351,2 nghìn lượt người, tăng 36,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến với mục đích du lịch, nghỉ dưỡng đạt 847 nghìn lượt người, tăng 41%; đến vì công việc 265,6 nghìn lượt người, tăng 63,5%; thăm thân nhân đạt 170 nghìn lượt người, tăng 3,6%. Khách quốc tế đến nước ta bằng đường không là 1087,1 nghìn lượt người, tăng 27%; đến bằng đường biển 12 nghìn lượt người, giảm 32,8%; đến bằng đường bộ 252,1 nghìn lượt người, tăng 113,5%.

Một số quốc gia và vùng lãnh thổ có lượng khách đến nước ta trong quý I tăng cao là: Trung Quốc 227,8 nghìn lượt người, tăng 115% so với cùng kỳ năm 2009; Hàn Quốc 133 nghìn lượt người, tăng 29,5%; Hoa Kỳ 127,7 nghìn lượt người, tăng 5,6%; Nhật Bản 110,7 nghìn lượt người, tăng 12%; Đài Loan 86,8 nghìn lượt người, tăng 22,4%; Ôx-trây-li-a 80,7 nghìn lượt người, tăng 24,5%; Cam-pu-chia 58,4 nghìn lượt người, tăng 147,2%; Pháp 57,4 nghìn lượt người, tăng 15,2%; Thái Lan 53,6 nghìn lượt người, tăng 37%; Ma-lai-xi-a 44,9 nghìn lượt người, tăng 14,3%.
Khách quốc tế đến Việt Nam

KẾT QUẢ ỔN ĐỊNH KINH TẾ VĨ MÔ, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG VÀ NGĂN CHẶN LẠM PHÁT CAO TRỞ LẠI

Đầu tư phát triển

Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện quý I/2010 theo giá thực tế ước tính đạt 146,8 nghìn tỷ đồng, tăng 26,2% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm: vốn khu vực Nhà nước đạt 70,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 48,2% tổng số vốn thực hiện và tăng 23,5%; vốn khu vực ngoài Nhà nước 28,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 19,3% và tăng 48,4%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 47,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 32,5% và tăng 19,6%.

Trong vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước thực hiện quý I/2010 ước tính đạt 21,8 nghìn tỷ đồng, bằng 17,4% kế hoạch năm, gồm có:

- Vốn trung ương quản lý đạt 6,7 nghìn tỷ đồng, bằng 17,9% kế hoạch năm (Bộ Xây dựng đạt 211 tỷ đồng, bằng 21,3% kế hoạch năm; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 110,5 tỷ đồng, bằng 18,8%; Bộ Công Thương 739 tỷ đồng, bằng 18,3%; Bộ Giao thông Vận tải 1207 tỷ đồng, bằng 18,1%; Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn 540 tỷ đồng, bằng 16,9%; Bộ Y tế 199,8 tỷ đồng, bằng 15,9%; Bộ Giáo dục và Đào tạo 156,4 tỷ đồng, bằng 15,3%).

- Vốn địa phương quản lý đạt 15,1 nghìn tỷ đồng, bằng 17,2% kế hoạch năm. Một số địa phương có tiến độ thực hiện nhanh là: Ninh Bình đạt 615,7 tỷ đồng, bằng 38,2% kế hoạch năm; Hòa Bình 323,5 tỷ đồng, bằng 30,6%; Đồng Nai 403 tỷ đồng, bằng 28,2%; Bắc Ninh 327 tỷ đồng, bằng 27,1%; Hải Phòng 433,7 tỷ đồng, bằng 26,1%.

Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến 22/3/2010 đạt 2,1 tỷ USD, bằng 29% so với cùng kỳ năm 2009, bao gồm: Vốn đăng ký của 139 dự án được cấp phép mới là 1,9 tỷ USD (giảm 40,9% về số dự án và giảm 40,5% về số vốn so với cùng kỳ năm trước); vốn đăng ký bổ sung của 41 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước là 215 triệu USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện quý I/2010 ước tính đạt 2,5 tỷ USD, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm 2009.

Trong quý I/2010, cả nước có 15 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp giấy phép mới, trong đó Bà Rịa-Vũng Tàu có số vốn đăng ký dẫn đầu với 902,6 triệu USD, chiếm 46,9% tổng vốn đăng ký; tiếp đến là thành phố Hồ Chí Minh 417,4 triệu USD, chiếm 21,7%; Quảng Ngãi 340 triệu USD, chiếm 17,7%; Bình Dương 97,8 triệu USD, chiếm 5,1%; Bắc Giang 54,1 triệu USD, chiếm 2,8%; Hải Phòng 32,3 triệu USD, chiếm 1,7%.

Trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam quý I/2010, Hoa Kỳ là nhà đầu tư lớn nhất với 919,2 triệu USD, chiếm 47,8% tổng vốn đăng ký cấp mới; tiếp đến là Hàn Quốc 506,5 triệu USD, chiếm 26,3%; Xin-ga-po 136,9 triệu USD, chiếm 7,1%; Xlô-va-ki-a 100 triệu USD, chiếm 5,2%; Quần đảo Virgin thuộc Anh 94,4 triệu USD, chiếm 4,9%; Đài Loan 69,6 triệu USD, chiếm 3,6%; CHND Trung Hoa 27,6 triệu USD, chiếm 1,4%...
Vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước thực hiện
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp phép từ 01/01- 22/3/2010

Cân đối thu, chi ngân sách Nhà nước

Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/3/2010 ước tính bằng 19,7% dự toán năm, trong đó các khoản thu nội địa bằng 18,9%; thu từ dầu thô bằng 18,6%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu bằng 23%. Trong thu nội địa, thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước bằng 21,2% dự toán năm; thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) bằng 18,5%; thu thuế công, thương nghiệp và dịch vụ ngoài Nhà nước bằng 17,6%; thuế thu nhập cá nhân bằng 17,3%; thu phí xăng dầu bằng 20,6%; thu phí, lệ phí bằng 17,5%.

Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến 15/3/2010 ước tính bằng 17,5% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển bằng 17,5%; chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể bằng 19,9%; chi trả nợ và viện trợ bằng 18,7%.

Cân đối thương mại

Xuất khẩu hàng hoá

Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 3/2010 ước tính đạt 5,2 tỷ USD, tăng 37,7% so với tháng trước, nhưng giảm 3,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2010, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 14 tỷ USD, giảm 1,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 6 tỷ USD, giảm 25%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 8 tỷ USD, tăng 28,6%. Nếu loại trừ tái xuất vàng của quý I/2009 và yếu tố tăng giá trên thị trường thế giới thì xuất khẩu hàng hóa quý I/2010 tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước.

Do không tái xuất vàng nên cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu quý I/2010 có sự thay đổi so với cùng kỳ năm trước. Tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản tăng từ 25,7% trong quý I/2009 lên 32,5% trong quý I/2010; nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng từ 33,4% lên 42,8%; nhóm hàng nông lâm nghiệp và thủy sản tăng từ 23,4% lên 24,7% (tái xuất vàng quý I/2009 chiếm 17,6%).

Trong quý I năm nay, một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn vẫn duy trì mức tăng cao so với cùng kỳ năm trước là: dệt may đạt 2,2 tỷ USD, tăng 12,3%; giày dép đạt 1 tỷ USD, tăng 10,1%; thủy sản đạt 861 triệu USD, tăng 14,5%; điện tử máy tính đạt 703 triệu USD, tăng 40,7%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 716 triệu USD, tăng 26,3%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 630 triệu USD, tăng 66,5%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 425 triệu USD, tăng 151,7%. Tuy nhiên, có một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực giảm so với cùng kỳ cả về lượng và giá trị như: Gạo đạt 677 triệu USD, giảm 30,7% về lượng và giảm 16,8% về giá trị; cà phê đạt 461 triệu USD, giảm 25,3% về lượng và giảm 31% về giá trị.
Xuất khẩu hàng hoá

Nhập khẩu hàng hoá

Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 3/2010 ước tính đạt 6,5 tỷ USD, tăng 28,2% so với tháng trước và tăng 27,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung kim ngạch nhập khẩu hàng hóa quý I/2010 ước tính đạt 17,5 tỷ USD, tăng 37,6% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 10,4 tỷ USD, tăng 28,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 7,1 tỷ USD, tăng 53,1%. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì kim ngạch nhập khẩu quý I/2010 tăng 16,6% so với cùng kỳ năm 2009.

Kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng quý I đạt 2,8 tỷ USD, tăng 10,8% so với cùng kỳ năm trước; xăng dầu đạt 1,6 tỷ USD tăng 33,2%; sắt thép đạt 1 tỷ USD, tăng 26%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 1 tỷ USD, tăng 53,1%; vải đạt 955 triệu USD, tăng 13,2%; chất dẻo đạt 758 triệu USD, tăng 53%; thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu đạt 623 triệu USD, tăng 136,9%; ôtô đạt 582 triệu USD, tăng 66% (trong đó ôtô nguyên chiếc đạt 149 triệu USD, giảm 3%); nguyên phụ liệu dệt may giày dép đạt 483 triệu USD, tăng 21,6%.

Cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu quý I/2010 không có nhiều biến động so với cùng kỳ năm 2009, nhóm hàng tư liệu sản xuất vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất với 88,8%; nhóm hàng tiêu dùng chiếm 9,9%; vàng chiếm 1,3%.

Nhập siêu tháng 3/2010 ước tính 1,35 tỷ USD, bằng 26,2% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa. Tính chung quý I/2010, nhập siêu đạt 3,5 tỷ USD, bằng 25% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa.
Nhập khẩu hàng hoá

Kết quả ngăn ngừa lạm phát cao trở lại

Giá tiêu dùng tháng 3/2010 tăng 0,75% so với tháng trước, trong đó nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng cao nhất với 1,38%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,03% (lương thực giảm 0,9%; thực phẩm tăng 1,5%; ăn uống ngoài gia đình tăng 1,75%). Giá các nhóm hàng hoá và dịch vụ khác tăng nhẹ gồm: May mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,15%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,16%; giáo dục tăng 0,18%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,34%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,39%; văn hoá, giải trí và du lịch tăng 0,5%; giao thông tăng 0,92%; riêng nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,2%.

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 3/2010 tăng 9,46% so với cùng kỳ năm 2009 và tăng 4,12% so với tháng 12/2009. Giá tiêu dùng bình quân quý I/2010 tăng 8,51% so với giá tiêu dùng bình quân quý I/2009.

Giá vàng tháng 3/2010 tăng 1,21% so với tháng trước; tăng 36,86% so với cùng kỳ năm 2009 và giảm 3,76% so với tháng 12/2009. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 3/2010 tăng 1,28% so với tháng trước; tăng 9,52% so với cùng kỳ năm trước; tăng 1,5% so với tháng 12/2009.
Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ tháng 03 năm 2010

KẾT QUẢ ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI

Đời sống dân cư

Công tác bảo đảm an sinh xã hội tiếp tục được triển khai tích cực tại các địa phương nhằm ổn định và nâng cao đời sống nhân dân. Các giải pháp hỗ trợ hộ nghèo phát triển sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, tăng thu nhập đã được coi trọng. Các đối tượng cứu trợ xã hội được hưởng chính sách trợ giúp thường xuyên như: hỗ trợ xây dựng và sửa chữa nhà ở, cấp thẻ bảo hiểm miễn phí, thẻ y tế và những hỗ trợ khác.

Trong dịp đầu xuân năm 2010, các địa phương thực hiện nghiêm túc Quyết định số 61/QĐ-CTN ngày 15/01/2010 của Chủ tịch nước về việc tặng quà nhân dịp Tết Nguyên đán Canh Dần năm 2010 và Công văn số 222/LĐTBXH-NCC ngày 21/01/2010 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội hướng dẫn về việc tặng quà cho các đối tượng chính sách xã hội và người có công với cách mạng. Theo Quyết định này, các đối tượng chính sách được tặng quà theo 2 mức: 400 nghìn đồng và 200 nghìn đồng. Ngoài ra UBND và các cơ quan, đoàn thể các địa phương còn hỗ trợ thêm cho các đối tượng này mỗi suất quà trị giá từ 100 nghìn đồng trở lên. Tổng giá trị hỗ trợ bằng tiền và hiện vật trong dịp Tết Nguyên đán cho các đối tượng chính sách xã hội là 776 tỷ đồng.

Ở khu vực nông thôn, do thiên tai xảy ra cuối năm 2009 gây thiệt hại nặng về người và tài sản; đồng thời ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư nên trong 3 tháng đầu năm 2010, cả nước có 236,1 nghìn lượt hộ với 934 nghìn lượt nhân khẩu thiếu đói. Tình trạng thiếu đói tập trung chủ yếu ở các tỉnh vùng Trung du và miền núi phía Bắc, vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung và vùng Tây Nguyên. Để giúp đỡ đồng bào khắc phục thiếu đói, từ đầu năm, Chính phủ và chính quyền các cấp, các ngành, các tổ chức cá nhân trong nước và quốc tế đã hỗ trợ các hộ thiếu đói 12,5 nghìn tấn lương thực và 4,6 tỷ đồng.

2. Y tế và chăm sóc sức khỏe dân cư

Trong quý I/2010, trên địa bàn cả nước đã có 7,4 nghìn trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết; 867 trường hợp mắc bệnh sốt rét; 484 trường hợp mắc viêm gan virút; 15 trường hợp nhiễm virút cúm A (H1N1) và 5 trường hợp nhiễm virút cúm A (H5N1).

Ngay từ đầu năm, Bộ Y tế cùng các ngành liên quan và các địa phương đã tích cực triển khai công tác vệ sinh an toàn thực phẩm. Tuy nhiên, tình trạng vi phạm quy định vệ sinh an toàn thực phẩm và ngộ độc thực phẩm vẫn xảy ra tại một số địa phương, nhiều vụ, nhiều cơ sở sản xuất không bảo đảm quy định này. Tính từ đầu năm đến 17/3/2010, cả nước đã xảy ra 23 vụ ngộ độc thực phẩm tập thể với 738 trường hợp bị ngộ độc, trong đó 12 người đã tử vong.

Số trường hợp nhiễm HIV/AIDS tiếp tục gia tăng. Tính từ ca phát hiện đầu tiên cho đến ngày 22/03/2010, trên địa bàn cả nước đã có 208,3 nghìn trường hợp nhiễm HIV, trong đó 81,9 nghìn người đã chuyển sang giai đoạn AIDS và 45,1 nghìn người đã tử vong do AIDS.

Tai nạn giao thông

Theo báo cáo của Uỷ ban an toàn giao thông quốc gia, trong 2 tháng đầu năm 2010, trên địa bàn cả nước đã xảy ra 2520 vụ tai nạn giao thông, làm chết 2072 người và làm bị thương 1978 người. So với 2 tháng đầu năm 2009, số vụ tai nạn giao thông tăng 16,5%; số người chết tăng 1,3%; số người bị thương tăng 38,9%. Bình quân một ngày trong 2 tháng đầu năm nay, trên địa bàn cả nước xảy ra 43 vụ tai nạn giao thông, làm chết 35 người và làm bị thương 34 người. So với cùng kỳ năm 2009, số vụ tai nạn giao thông bình quân một ngày tăng 7 vụ; số người chết tăng 1 người và số người bị thương tăng 10 người.

Riêng trong 6 ngày Tết Canh Dần (từ 30 tháng Chạp đến 5 tháng Giêng), trên địa bàn cả nước đã xảy ra 407 vụ tai nạn giao thông, làm chết 297 người và làm bị thương 425 người, trong đó 397 vụ tai nạn giao thông đường bộ, làm chết 287 người và làm bị thương 425 người. Bình quân 1 ngày có gần 50 người chết do tai nạn giao thông.

Thiệt hại do thiên tai

Trong 3 tháng đầu năm 2010, áp thấp nhiệt đới, triều cường, mưa lớn kéo dài và lốc xoáy đã gây thiệt hại về người và tài sản cho 4 tỉnh là Yên Bái, Thanh Hoá, Bình Thuận và Đồng Tháp. Theo báo cáo sơ bộ của các địa phương, thiên tai đã làm 5 người chết; 10 người bị thương, tổng giá trị thiệt hại ước tính gần 13 tỷ đồng.

Khái quát lại, mặc dù đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, nhưng trong quý I/2010 nền kinh tế nước ta vẫn tiếp tục đà phục hồi của những quý cuối năm 2009 với tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước đạt 5,83%, gấp gần 1,9 lần tốc độ tăng trong quý I/2009. Đáng chú ý là sự phục hồi diễn ra ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực kinh tế then chốt: Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 5,8%; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,6%; tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế tăng 24,1%, nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì tăng 14,4%; thực hiện vốn đầu tư toàn xã hội ước tính tăng 26,2%; vận chuyển hành khách tăng 14,8% về khối lượng vận chuyển và tăng 15,8% về khối lượng luân chuyển; vận chuyển hàng hoá tăng 10,4% về khối lượng vận chuyển và tăng 8,5% về khối lượng luân chuyển; khách quốc tế đến nước ta tăng 36,2%.

Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn vừa có tính trước mắt vừa có tính lâu dài. Chất lượng, hiệu quả tăng trưởng hạn chế; sức cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và của nhiều ngành, nhiều loại sản phẩm hàng hoá, dịch vụ còn thấp. Một số cân đối kinh tế vĩ mô chưa được cải thiện đáng kể, thiếu tính bền vững, nhất là cân đối xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ; cân đối thu chi ngân sách Nhà nước; cân đối vốn đầu tư phát triển; chỉ số giá tiêu dùng tăng cao. Những khó khăn, thách thức đó đã tác động không nhỏ đến sản xuất và đời sống dân cư.

Năm 2010 có vị trí rất quan trọng. Việc hoàn thành Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2010 không chỉ góp phần thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010 và Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2010, mà còn tạo tiền đề vật chất và tinh thần để bước vào triển khai thực hiện các mục tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2011-2015 và Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2011-2020 mà Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI tiến hành đầu năm 2011 sẽ đề ra.

Để hoàn thành những mục tiêu Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2010, các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và nhân dân cả nước cần tiếp tục thực hiện nghiêm túc, quyết liệt các Nghị quyết số 36/2009/QH12; Nghị quyết số 37/2009/QH12 và Nghị quyết số 38/2009/QH12 của Quốc hội; Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 15/01/2010 của Chính phủ, trong đó chú trọng các vấn đề lớn sau đây:

- Một là, trên cơ sở kết quả thực hiện trong quý I/2010, các ngành, các cấp cần rà soát các chỉ tiêu chủ yếu của Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2010 đã được Quốc hội và các ngành, các địa phương thông qua để đề ra nhiệm vụ phấn đấu cho các tháng, quý tiếp theo. Riêng về tổng sản phẩm trong nước, theo tính toán của Tổng cục Thống kê, quý I/2010 tuy tăng trưởng cao nhưng mới đạt 5,83%, muốn đạt chỉ tiêu cả năm tăng 6,5% thì quý II/2010 phải phấn đấu tăng 6%; quý III/2010 tăng 6,5% và quý IV tăng 7,3%.

- Hai là, để thực hiện được các chỉ tiêu chủ yếu của Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2010 nói chung và chỉ tiêu tăng tổng sản phẩm trong nước nói riêng, phải tận dụng đà phục hồi của kinh tế trong nước và xu hướng phục hồi của kinh tế thế giới để đẩy mạnh sản xuất kinh doanh. Rà soát và xác định rõ những thế mạnh của địa phương, của mỗi ngành và của từng doanh nghiệp để ưu tiên phát triển sản xuất, kinh doanh. Khai thác cao nhất sức mua của thị trường nội địa, nhất là thị trường khu vực nông thôn nhằm tiêu thụ mạnh hơn hàng hoá sản xuất trong nước. Đẩy mạnh thực hiện chiến lược thu mua dự trữ các sản phẩm hàng hoá, bảo đảm giá cả có lợi cho người sản xuất; đồng thời tạo quỹ hàng hoá để chủ động trong xuất khẩu và bình ổn giá cả thị trường trong nước. Trước mắt cần chuẩn bị kho tạm chứa và kinh phí tiếp tục thu mua hết lúa hàng hoá của vùng Đồng bằng sông Cửu Long vì đang vào vụ thu hoạch đại trà với sản lượng dự báo tăng cao so với vụ đông xuân 2009; thu mua cà phê và một số loại nông sản khác. Phát huy vai trò chủ đạo của các doanh nghiệp và tập đoàn kinh tế Nhà nước gắn liền với ngăn ngừa độc quyền. Tăng cường vai trò chỉ đạo, điều hành nền kinh tế của Nhà nước bằng các giải pháp phù hợp với quy luật thị trường, tránh lạm dụng các biện pháp can thiệp hành chính. Trong công nghiệp, bên cạnh việc quan tâm đổi mới thiết bị công nghệ lạc hậu và nâng cao hiệu quả các cơ sở công nghiệp hiện có, cần đẩy mạnh đầu tư xây dựng các cơ sở công nghiệp phụ trợ và công nghiệp tái sử dụng nguyên vật liệu nhằm tiết kiệm trong nhập khẩu và bảo vệ môi trường.

- Ba là, tập trung chỉ đạo đẩy mạnh tiến độ thực hiện và giải ngân các dự án công trình đầu tư sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước, trái phiếu Chính phủ, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp Nhà nước để bù đắp cho việc triển khai các dự án thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước đạt thấp (Thực hiện quý I/2010 chỉ đạt 17,4% kế hoạch năm). Tiếp tục đổi mới và hoàn chỉnh cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước mở rộng đầu tư. Có giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài tăng trở lại vì số vốn đăng ký đầu tư thuộc khu vực đầu tư này năm 2009 đã giảm 70%; quý I/2010 tiếp tục giảm 71% so với cùng kỳ năm trước. Tăng cường huy động các nguồn vốn đầu tư phải gắn liền với việc quản lý chặt chẽ, chống thất thoát, lãng phí nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng.

- Bốn là, chú trọng giám sát và điều hành các cân đối kinh tế vĩ mô. Giảm thiểu tình trạng mất cân đối trong cán cân thanh toán quốc tế, cán cân thương mại, cân đối thu chi ngân sách Nhà nước. Thực hiện chính sách tài chính tiền tệ vừa thận trọng vừa tạo điều kiện thuận tiện trong việc vay vốn để triển khai các dự án đầu tư có hiệu quả; có giải pháp đồng bộ, linh hoạt và hiệu quả trong chỉ đạo, điều hành hoạt động tài chính, ngân hàng để hỗ trợ tích cực, thúc đẩy nền kinh tế phục hồi nhanh và tăng trưởng bền vững. Phấn đấu thực hiện chỉ tiêu nhập siêu bằng 20% xuất khẩu. Để thực hiện nhiệm vụ khó khăn này, mức nhập siêu các tháng còn lại tối đa không được vượt quá 18-19% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng tháng. Đẩy mạnh xuất khẩu những hàng hoá dịch vụ nước ta có thế mạnh, tiếp tục củng cố thị trường hiện có và mở rộng khai thác thị trường thế giới đang xuất hiện nhu cầu do kinh tế nhiều nước đang và sẽ phục hồi. Khẩn trương nghiên cứu và xây dựng hàng rào kỹ thuật phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm ngăn chặn hàng hoá dư thừa, tồn kho, hàng hoá chất lượng thấp, hàng giả nhập khẩu chính ngạch và tiểu ngạch tràn vào nước ta. Đồng thời tiến hành xây dựng chương trình và giải pháp thiết thực, đồng bộ nhằm khôi phục và tăng dữ trữ ngoại tệ của Nhà nước.

- Năm là, kiểm soát chặt chẽ giá cả hàng hoá, dịch vụ trên thị trường, phòng ngừa lạm phát cao trở lại. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 3/2010 đã tăng 4,12% so với tháng 12/2009. Như vậy, muốn thực hiện được mục tiêu kiềm chế lạm phát không quá 7% thì mỗi tháng còn lại của năm 2010 chỉ được phép tăng không quá 0,3%. Đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề vì diễn biến giá cả năm 2010 không hoàn toàn theo quy luật của các năm trước. Trong những tháng tới, giá tiêu dùng có thể sẽ còn tiếp tục chịu tác động tiêu cực của các yếu tố chính sau đây: (1) Hệ luỵ của chính sách nới lỏng tài chính và các gói kích cầu đầu tư, kích cầu tiêu dùng áp dụng trong năm 2009; (2) Tác động dây chuyền theo quan hệ liên ngành của việc tăng giá điện, than, xăng dầu, sắt thép, cước vận chuyển trong thời gian vừa qua tới các ngành không trực tiếp sử dụng các sản phẩm hàng hoá đã tăng giá; (3) Giá cả của nhiều loại hàng hoá, dịch vụ nước ta nhập khẩu với khối lượng lớn trên thị trường thế giới tăng do kinh tế thế giới phục hồi; (4) Thêm vào đó, từ 1/5/2010 cán bộ, công chức được nâng lương tối thiểu từ 650 nghìn đồng/tháng lên 730 nghìn đồng/tháng cũng sẽ tạo ra tâm lý và lý do để thị trường tăng giá hàng hoá tiêu dùng. Để kiềm chế lạm phát, cần khẩn trương phân tích đánh giá, rút ra những nguyên nhân khách quan và chủ quan tác động tăng giá tiêu dùng những tháng vừa qua và dự báo cho thời gian tới để chủ động kiềm chế lạm phát.

- Sáu là, do giá tiêu dùng tăng nhanh và đứng ở mức cao nên thu nhập thực tế của dân cư bị thu hẹp. Vùng bị bão lũ năm 2009 và đầu năm 2010 tàn phá nặng nề đến nay sản xuất và đời sống vẫn gặp khó khăn. Do vậy, tình trạng tái nghèo và thiếu đói giáp hạt có dấu hiệu gia tăng ở một số địa bàn. Do vậy, phải đẩy mạnh việc thực hiện và nâng cao hiệu quả của chương trình xoá đói giảm nghèo; chống tái nghèo đối với các hộ cận nghèo. Các địa phương cần rà soát lại các hộ đang thiếu đói để trợ giúp, khắc phục kịp thời và triệt để, góp phần thực hiện mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội. Mặt khác, phải tăng cường công tác bảo vệ môi trường, phòng chống cháy rừng, thiên tai, dịch bệnh cho người, cây trồng, vật nuôi, không để xảy ra trên diện rộng gây thiệt hại lớn và gây tâm lý hoang mang trong cộng đồng. Ngoài ra, công tác bảo đảm an toàn giao thông cần phải được các ngành, các địa phương quan tâm triển khai quyết liệt và phải có giải pháp đồng bộ, hiệu quả nhằm hạn chế mạnh hơn nữa tình trạng tai nạn giao thông sau một thời gian giảm thiểu, đến quý I/2010 đã bắt đầu tăng trở lại.

Những kết quả đạt được trong quý I/2010 cho thấy tình hình kinh tế-xã hội nước ta tiếp tục phát triển theo xu hướng tích cực, chứng tỏ những giải pháp đề ra từ đầu năm phù hợp và đã đi vào thực tế, bước đầu phát huy tác dụng tốt. Theo đà thắng lợi đó, cần tiếp tục triển khai tích cực, kịp thời các Nghị quyết của Đảng, Nhà nước và những giải pháp kiến nghị nêu trên; cùng với việc phát huy tốt kinh nghiệm thành công trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và kết quả thu được của nền kinh tế nước ta năm 2009 và quý I/2010, chắc chắn chúng ta sẽ hoàn thành Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2010, tạo đà phát triển với tốc độ cao và bền vững trong những năm tiếp theo.

TỔNG CỤC THỐNG KÊ
Về Đầu Trang Go down
https://taichinhk34.forummotion.com
 
Tình hình kinh tế - xã hội quý I năm 2010
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» Tình hình kinh tế- xã hội 02 tháng đầu năm 2010
» Valentines Day 2010 - Bo phim tinh cam lang man, hai huoc
» Rokk (2010) phim kinh dị Ấn Độ [DVDrip] link Mediafire sub Việt
» The Exorcist - Bộ phim kinh dị kinh điển nhất mọi thời đại [DVDrip][Mediafire][vietsub]
» [SO HOT] BẠN NGHĨ HÌNH DẠNG vs KÍCH CỠ NHƯ THẾ NÀO THÌ CHUẨN …!?!

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Diễn đàn Sinh Viên Tài Chính - NLU :: Chuyên đề kinh tế :: Các số liệu-
Chuyển đến 
Free forum | Khoa học | Giáo dục, giảng dạy | ©phpBB | Free forum support | Báo cáo lạm dụng | Thảo luận mới nhất